Chi tiết bài viết

Một số quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

11:29, Thứ Ba, 10-8-2010

(Website Quảng Bình) - Ngày 18/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XII đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBT của NN). Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010.

Đối tượng được bồi thường

Đối tượng được bồi thường là cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần mà thuộc các trường hợp đã được quy định trong Luật TNBT của NN thì được Nhà nước bồi thường. 

Cá nhân, tổ chức bao gồm: cá nhân, tổ chức Việt Nam và cá nhân, tổ chức nước ngoài được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.

Phạm vi điều chỉnh

Luật TNBT của NN quy định Nhà nước có  trách nhiệm bồi thường đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động: quản lý hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án; thủ tục giải quyết bồi thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.   

Thời hiệu yêu cầu bồi thường

- 02 năm, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường;

- Trong quá trình khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại hoặc Toà án giải quyết việc bồi thường thì thời hiệu yêu cầu bồi thường được xác định theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính;

+ Trong quá trình giải quyết khiếu nại, giải quyết vụ án hành chính đã xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và có thiệt hại thực tế mà việc bồi thường chưa được giải quyết thì thời hiệu yêu cầu bồi thường là 02 năm.

Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Luật TNBT của NN quy định về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường cho 2 lĩnh vực hoạt động khác nhau, cụ thể:

- Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án phải có căn cứ:

+ Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường được Luật TNBT của NN quy định;

+ Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại.

- Việc xác định trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự phải có căn cứ:

+ Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường theo quy định của  Luật TNBT của NN;

+ Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với người bị thiệt hại.

Mặc dù không quy định trực tiếp lỗi là một trong các căn cứ để xác định TNBT của NN, nhưng Luật TNBT của NN đã gián tiếp quy định về căn cứ này thông qua việc quy định một số trường hợp không làm phát sinh TNBT của NN. Cụ thê, Nhà nước không bồi thường đối với các thiệt hại xảy ra trong các trường hợp:

+ Do lỗi của người bị thiệt hại;

+ Người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc;

+ Do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết.

Phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

Luật TNBT của NN quy định TNBT của NN trong lĩnh vực quản lý hành chính, tố tụng hình sự; tố tụng dân sự; tố tụng hành chính và trong thi hành án. Trong đó:

- Trong hoạt động quản lý hành chính:

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp:

+ Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

+ Áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính;

+ Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa bệnh;

+ Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép;

+ Áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất;

+ Áp dụng thủ tục hải quan;

+ Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

+ Ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;

+ Cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu lực của văn bằng bảo hộ;

+ Không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện;

+ Các trường hợp được bồi thường khác do pháp luật quy định.

- Trong hoạt động tố tụng hình sự:

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi người bị thiệt hại bị oan, tức là không thực hiện hành vi phạm tội mà bị điều tra, truy tố, xét xử mà không đặt vấn đề lỗi của người thi hành công vụ có lỗi hay không có lỗi trong việc gây ra tình trạng oan này. Gồm các trường hợp:

+ Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

+ Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết

định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

+ Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đã không thực hiện hành vi phạm tội;

+ Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì được bồi thường.

- Trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính:

Vấn đề bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền 2 lĩnh vực tố tụng này là vấn đề mới đã được xác định trong Luật TNBT của NN. Cụ thể, Luật quy định 4 trường hợp được Nhà nước bồi thường, bao gồm:

+ Tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu;

+ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức;

+ Ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án.

- Trong hoạt động thi hành án dân sự:

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp:

+ Ra hoặc cố ý không ra quyết định: Thi hành án; thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về thi hành án; áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án; cưỡng chế thi hành án; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án; hoãn thi hành án; tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án; tiếp tục thi hành án.

+ Tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành các quyết định nêu trên.

- Trong hoạt động thi hành án hình sự:

Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp:

+ Ra quyết định thi hành án tử hình đối với người có đủ điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật Hình sự;

+ Giam người quá thời hạn phải thi hành án phạt tù theo bản án, quyết định của Toà án;

+ Không thực hiện quyết định hoãn thi hành án đối với người bị kết án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;

+ Không thực hiện quyết định giảm án tù, quyết định đặc xá, quyết định đại xá.

Các thiệt hại được bồi thường và mức bồi thường

Luật TNBT của NN quy định cụ thể từng loại thiệt hại được bồi thường, bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại do tổn thất về tinh thần; thiệt hại về vật chất do người bị thiệt hại chết; thiệt hại về vật chất do bị tổn hại về sức khoẻ; trả lại tài sản; khôi phục danh dự cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự.

Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường

Giải quyết yêu cầu bồi thường cho người thiệt hại theo 2 thủ tục sau: tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường và tại Toà án:

- Giải quyết yêu cầu bồi thường tại cơ quan có trách nhiệm bồi thường:

Người bị thiệt hại phải thực hiện việc yêu cầu cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại giải quyết bồi thường trước khi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường. Người bị thiệt hại sẽ gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tiến hành việc thương lượng với người bị thiệt hại sau đó ra quyết định giải quyết bồi thường, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc việc thương lượng, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải ra quyết định giải quyết bồi thường.

Quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định, trừ trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý và khởi kiện ra Toà án. Quyết định giải quyết bồi thường đã có hiệu lực pháp luật thì người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường.

- Giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà án:

Người bị thiệt hại có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường nếu hết thời hạn luật định mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định giải quyết bồi thường hoặc khi họ đã nhận được quyết định nhưng không đồng ý với nội dung của quyết định đó.

Nguồn: Sở Tư pháp

Các tin khác

Thông báo mới

VB mới

Chủ tịch HCM và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thông tin tuyên truyền (PBPL ... DVC)

Footer Quảng Bình

Lượt truy cập