Chi tiết bài viết

Những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản do mưa lũ trên địa bàn tỉnh

9:54, Thứ Bảy, 18-12-2021

(Quang Binh Portal) - Quảng Bình là tỉnh thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, hàng năm, các trận bão, áp thấp nhiệt đới và gió mùa Đông Bắc đã gây nên những trận mưa lớn hình thành các đợt lũ lụt lớn gây thiệt hại đáng kể về người và tài sản tại địa bàn. Theo thống kê từ năm 2010 đến nay, địa phương đã hứng chịu 16 cơn bão, 32 đợt lũ, lụt, trong đó các trận lũ lớn, lũ lịch sử xảy ra khi có bão lớn hoặc do ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới và gió mùa Đông Bắc. Thiên tai đã làm trên 160 người chết, nhà bị ngập trên 550.000 lượt nhà, tổng giá trị thiệt hại trong 10 năm trên 8.000 tỷ đồng, riêng trong 02 năm 2010 và 2020 đã xảy ra 03 đợt lũ chồng lũ đặc biệt lớn, ghi mốc lịch sử. Đợt lũ cuối tháng 9, đầu tháng 10/2010 đã gây lũ đặc biệt lớn trên toàn tỉnh, nhiều vùng mực nước vượt mốc lũ năm 2007. Đợt mưa lũ từ ngày 16 - 22/10/2020 đã gây ra lũ đặc biệt lớn vượt lũ lịch sử 1979.

Theo ghi nhận, trong các trận lũ lớn, hầu hết địa phương trong toàn tỉnh bị ngập lụt, trong đó một số vùng ngập sâu, kéo dài gồm: Các xã thuộc huyện Minh Hóa, Tuyên Hóa, các xã ven sông thuộc trung và hạ du sông Gianh thuộc huyện Bố Trạch, Quảng Trạch, Ba Đồn; các xã đồng bằng thuộc 02 huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh trên lưu vực sông Nhật Lệ. Đặc biệt, năm 2020 là năm điển hình về thiên tai, bão lũ đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến kinh tế, xã hội và đời sống Nhân dân khu vực miền Trung, trong đó có Quảng Bình. Cụ thể, đỉnh lũ trên sông Kiến Giang tại trạm Lệ Thủy lên tới 4,88m, vượt lũ lịch sử năm 1979 là 0,97m. Mực nước lớn nhất tại Trạm thủy văn Đồng Hới đạt 2,64m, trên báo động III 0,64m, lớn hơn đỉnh lũ lịch sử 0,47m. Trước, trong và sau thiên tai, công tác ứng phó, phòng, chống, khắc phục hậu quả mưa lũ đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các Bộ ngành Trung ương, đặc biệt sự chủ động, quyết liệt của cả hệ thống chính trị và Nhân dân tỉnh Quảng Bình triển khai thực hiện, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra. Tuy nhiên, mưa lũ đã gây thiệt hại nặng nề, ước tính tổng giá trị thiệt hại do thiên tai toàn tỉnh năm 2020 là 3.676 tỷ đồng (25 người chết; 197 người bị thương; 113 ngôi nhà sập; 125.881 ngôi nhà ngập, trên 100 nghìn ngôi nhà bị ngập lụt, tốc mái, tài sản trong dân bị hư hỏng, cuốn trôi; nhiều trường học, trạm y tế bị hư hỏng; hàng trăm nghìn m3 đất đá bê tông bị cuốn trôi; hàng nghìn hecta lúa, hoa màu bị hư hỏng; hàng trăm nghìn gia súc, gia cầm bị cuốn trôi…). Thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2020 ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đời sống của Nhân dân, đòi hỏi cần nhiều thời gian, nguồn lực, nỗ lực của cả hệ thống chính trị và Nhân dân trong việc khôi phục sản xuất, kinh doanh, khắc phục thiệt hại do hậu quả của thiên tai.

Nguyên nhân là do hệ thống sông suối của Quảng Bình có đặc điểm chung là chiều dài ngắn, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn và khả năng điều tiết nước kém, thường gây lũ lớn trong mùa mưa. Sự phân bố dòng chảy đối với các sông suối ở Quảng Bình theo mùa rõ rệt. Sông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của mưa lũ ở thượng nguồn và chế độ thủy triều ở hạ lưu. Mùa mưa lũ, nước chảy dồn ứ từ sườn núi xuống thung lũng hẹp, kết hợp triều cường dẫn đến nước sông lên rất nhanh, gây lũ, lụt lớn trên diện rộng, thời gian ngập lụt kéo dài. Ngược lại, về mùa khô nước sông xuống thấp, dòng chảy yếu. Vì vậy, những vùng đất thấp ở hạ lưu một số sông thường bị nhiễm mặn ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp. Quảng Bình là một trong những nơi diễn ra sự giao tranh và kết hợp giữa các khối không khí lớn. Chính sự giao tranh này kết hợp với yếu tố địa hình làm cho lớp không khí gần mặt đất bất ổn định, dẫn đến mùa mưa và tổng lượng mưa trong từng thời kỳ giữa các vùng khác nhau, mùa mưa bắt đầu sớm ở vùng phía Bắc tỉnh, kết thúc muộn ở phía Nam của tỉnh.

Cùng với đó, những dãy núi chạy dọc biên giới phía Tây và dãy núi đâm ngang ra biển tạo thành vành đai chắn gió theo nhiều hướng. Tác động của sự ngăn chặn này không những làm cho hướng gió bị thay đổi mà còn làm cho không khí bị dồn ép, đi lên do vậy khi các hình thế thời tiết kết hợp với nhau sẽ gây nên từng đợt mưa cực kỳ lớn, địa hình gồ ghề, thảm thực vật mỏng, sông ngắn, dốc trở thành nguyên nhân gián tiếp của hai loại thiên tai lũ lụt trong mùa mưa, hạn hán trong mùa khô.

Bên cạnh nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan là do các đường giao thông được làm mới, nâng cấp ở vùng đồng bằng có hướng vuông góc với hướng dòng chảy ngăn cản quá trình thoát lũ. Các cầu giao thông, kè sông và đường giao thông dọc theo sông, vùng đất trũng thấp ven sông bị san lấp là những nhân tố này làm co hẹp hành lang thoát lũ góp phần ngăn cản thoát lũ. Quy hoạch cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ với chiến lược phòng, chống thiên tai, đặc biệt các khu ao hồ, đầm lầy nơi chứa nước bị san lấp làm hạ tầng. Ngoài ra, còn có những vấn đề tồn tại, bất cập cần giải quyết tại địa phương, đó là: Công tác dự báo, cảnh báo tuy đã có tiến bộ nhưng do điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng thay đổi, cơ sở vật chất hiện có chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ vận hành hồ chứa thủy lợi. Hệ thống trạm đo mưa khu vực thượng lưu các hồ chứa nước còn thưa, chưa có trạm quan trắc hải văn tại vùng biển. Công nghệ dự báo bao gồm hệ thống quan trắc, radar, lưới trạm khí tượng thủy văn còn thiếu. Phương tiện, vật tư, năng lực cứu hộ, cứu nạn chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là phương tiện, thiết bị tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ trên biển. Công tác tuyên truyền giáo dục cộng đồng cho người dân, giáo dục thiên tai trong trường học, tập huấn, diễn tập tìm kiếm cứu nạn đã được quan tâm triển khai nhưng số lượng đạt được vẫn còn hạn chế, nội dung chưa phong phú. Lực lượng cán bộ làm việc cho lĩnh vực phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn các huyện, thị xã, thành phố chủ yếu là kiêm nhiệm, thiếu trang thiết bị chuyên dụng. Một số tuyến giao thông chính chưa được nâng cấp, mở rộng khẩu độ cầu cống phù hợp với tần suất, mức độ mưa lũ gia tăng trong bối cảnh biến đổi khí hậu dẫn tới cản trở thoát lũ, ngập sâu ở vùng thượng lưu. Nguồn kinh phí đầu tư cho công tác phòng ngừa và hỗ trợ khắc hậu quả thiên tai còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu của các địa phương…

Để giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản do mưa lũ, tỉnh đã triển khai một số giải pháp phi công trình như đẩy mạnh công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ, nâng cao chất lượng rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, nhất là rừng đầu nguồn các sông, suối, rừng ven biển; rà soát, bổ sung bản đồ phân vùng ngập lụt, đánh giá rủi ro do lũ, vùng nguy cơ xảy ra lũ quét, lũ ống; quy hoạch phòng, chống lũ cho vùng đồng bằng các sông trong tỉnh, xây dựng hệ thống đê sông, đê biển trên địa bàn tỉnh, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ bờ biển, ven biển; lồng ghép nội dung kế hoạch phòng, chống thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa ph¬ương; phân bổ nguồn lực hợp lý, đồng bộ giữa các cấp, ngành và địa phương có tính đến việc đáp ứng yêu cầu về phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai; phù hợp với chiến l¬ược phát triển của ngành, vùng, tỉnh, Trung ương, đặc điểm thiên tai của từng vùng, bảo đảm phát triển an toàn bền vững.

Bên cạnh đó, địa phương cũng đề ra một số giải pháp công trình gồm kiên cố hóa nhà tạm bợ; xây dựng khu tái định cư ở vùng cao nội xã, nội huyện, nội tỉnh, công trình đê chống lũ, cống thoát nước; kiên cố, cao tầng hóa công trình công cộng làm nơi tránh lũ cho Nhân dân; nâng cấp, đầu tư xây dựng mới hệ thống trạm khí tượng thủy văn trên địa bàn tỉnh; tăng cường điểm đo mưa tự động, các trạm thủy văn ở miền núi và thượng nguồn các sông; xây dựng bổ sung mốc, tháp cảnh báo lũ; nâng cấp công trình cơ sở hạ tầng hiện có, đặc biệt là hồ chứa nước đã bị xuống cấp; xây dựng tuyến đường vượt lũ, tiếp tục đầu tư chương trình mở rộng khẩu độ cầu, cống trên hệ thống đường bộ, đường sắt đảm bảo thoát lũ; xây dựng quy trình vận hành hồ chứa để khai thác có hiệu quả nguồn nước và tham gia cắt, giãn lũ; xây dựng công trình phòng, chống thiên tai; nạo vét luồng lạch, nhất là ở cửa sông; nâng cấp đê ngăn mặn, kè sông, kè biển hiện có; xây dựng hệ thống công trình ngăn mặn, giữ ngọt, ao, hồ nuôi thủy sản theo quy hoạch, đảm bảo cao trình vượt lũ; xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch sinh hoạt, nhất là công trình sử dụng nước mặt; hạn chế, giảm dần sử dụng nước ngầm...

Với những giải pháp thiết thực, hiệu quả đó, tin rằng, thời gian tới, Quảng Bình sẽ giảm thiểu được thiệt hại về người và tài sản do mưa lũ trên địa bàn tỉnh.

PV Minh Huyền

Các tin khác

Thông báo mới

VB mới

Chủ tịch HCM và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thông tin tuyên truyền (PBPL ... DVC)

Footer Quảng Bình

Lượt truy cập