Chi tiết bài viết

Phát triển kinh tế trang trại góp phần phát triển nông nghiệp bền vững

15:51, Thứ Hai, 25-10-2021

(Quang Binh Portal) - Kinh tế trang trại được xem là mũi nhọn trong phát triển nền nông nghiệp hàng hóa, góp phần nâng cao giá trị nông sản, thu nhập cho nông dân. Theo đó, thời gian qua, Quảng Bình luôn xác định kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xóa đói giảm nghèo; phân bổ lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới..


Lãnh đạo tỉnh thăm một số mô hình kinh tế trang trại trên địa bàn thị xã Ba Đồn

Từ sau khi Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 19/CT-TU ngày 30/6/2003 về tăng cường chỉ đạo thực hiện công tác dồn điền đổi thửa, UBND tỉnh đã tập trung chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện, tạo điều kiện cho chủ trang trại có đủ điều kiện tích tụ ruộng đất, thuận lợi thâm canh, quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả. Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần khai thác thêm diện tích đất trống, đồi núi trọc, diện tích khai hoang đưa vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nhất là ở vùng đồng bằng, miền núi và ven biển.

Tính đến ngày 31/12/2020, tổng diện tích đất nông, lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản đang được các trang trại khai thác và sử dụng là 1.820,1 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm 36,1%; đất lâm nghiệp 42,6%; diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản chiếm 11,4%; đất khác chiếm 9,9%; bình quân diện tích đất các trang trại sử dụng 5,6 ha/trang trại. Trang trại chăn nuôi có diện tích đất thấp nhất (từ 2,5 - 3,0 ha/trang trại), tiếp đến là trang trại thủy sản (từ 3,0 - 3,9 ha/trang trại). Trang trại lâm nghiệp có diện tích đất cao nhất (từ 29,3 - 64,7 ha/trang trại) do có sự tích tụ ruộng đất qua quá trình phát triển. Các hộ gia đình, cá nhân đầu tư phát triển kinh tế trang trại được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ổn định, lâu dài theo pháp luật để hoạt động sản xuất kinh doanh. Diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chiếm khoảng 80,5% tổng diện tích đất trang trại sử dụng.

Ngoài nguồn vốn tự có, các trang trại khi khởi đầu hầu như đều phải vay vốn từ ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng để sản xuất. Trong những năm qua, các tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã ưu tiên và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ trang trại được vay vốn theo lãi suất ưu đãi, vay vốn trung, dài hạn. Giai đoạn từ năm 2006 - 2010, có khoảng 192 lượt trang trại vay với số vốn khoảng 7.444 triệu đồng, trong đó chủ yếu cho vay để chăn nuôi, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, số hộ vay chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản chiếm tỷ lệ ít. Giai đoạn 2011 - 2016, các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã cho hơn 300 lượt chủ trang trại vay vốn với số vốn 235.271 triệu đồng. Riêng trong năm 2020, có khoảng 36 lượt chủ trang trại vay vốn phục vụ sản xuất với số vốn 1.970 triệu đồng, phần lớn các trang trại đều vay dưới dạng thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đầu tư sản xuất. Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Quảng Bình đều có chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn chủ động rà soát, tổng hợp thiệt hại do thiên tai của khách hàng vay vốn trong đó có đối tượng là các trang trại, xác định dư nợ của trang trại bị thiệt hại để thực hiện giải pháp hỗ trợ theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như cơ cấu lại nợ, xem xét miễn, giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới giúp các trang trại sớm vượt qua khó khăn, duy trì ổn định sản xuất, kinh doanh.

Cùng với đó, tỉnh đã chỉ đạo lồng ghép chính sách lao động kinh tế trang trại của Đề án Phát triển kinh tế trang trại với các Dự án hỗ trợ dạy nghề trình độ sơ cấp, dưới 03 tháng cho người nghèo từ Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo từ năm 2020 trở về trước, Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, Chương trình phát triển thị trường lao động và một số chính sách ưu tiên hỗ trợ dự án trang trại sử dụng nhiều người lao động địa phương. Giai đoạn 2006 - 2020, toàn tỉnh đã hỗ trợ đào tạo nghề cho 48.374 người, trong đó hỗ trợ đào tạo nghề nông nghiệp cho 29.599 người, chiếm 62% so với số lao động được hỗ trợ đào tạo. Trong 10 năm 2011 - 2020, tỉnh đã giải quyết việc làm cho 190.844 người lao động, tương đương trung bình mỗi năm có 19.084 lao động được tạo việc làm, trong đó có khoảng 11.400 lao động được giải quyết việc làm thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội bao gồm cả mô hình trang trại và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.

Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề trình độ sơ cấp và dưới 03 tháng của Nhà nước cũng đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn, không những thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại mà còn đáp ứng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Các nghề hỗ trợ đào tạo để phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh hầu hết thuộc lĩnh vực nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông lâm, thủy sản, phù hợp với thực tế sản xuất của người dân. Đối với những mô hình trang trại sử dụng nhiều lao động còn được ưu tiên hỗ trợ chính sách vay vốn ưu đãi từ Quỹ Quốc gia về việc làm để tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Đây cũng là cơ sở để các trang trại thu hút thêm nguồn nhân lực, nhất là người lao động ở vùng đông dân cư đến phát triển sản xuất tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Đến 31/12/2020, tổng số lao động được các trang trại sử dụng là 2.105 người, bình quân 6,5 người/trang trại, trong đó lao động thường xuyên của trang trại 1.321 người, lao động thuê ngoài thời vụ 784 người.

Thông qua thực hiện các chương trình, dự án, đề tài, từ nhiều nguồn kinh phí phát triển sản xuất, tỉnh đã ưu tiên đầu tư chuyển giao, ứng dụng khoa học - công nghệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp cho người dân, trong đó có các chủ trang trại. Nhiều mô hình ứng dụng khoa học - công nghệ đã triển khai thực hiện trên địa bàn, trong đó một số mô hình thành công đang được nhân rộng. Các địa phương, đơn vị đã tập trung đào tạo, tập huấn chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho nông dân, trang trại, thực hiện nhiều mô hình về giống cây trồng, vật nuôi mới, tạo điều kiện cho các trang trại đa dạng hóa sản phẩm, xây dựng thương hiệu và nâng cao sức cạnh tranh. Đã có 250 chủ trang trại được hỗ trợ lắp đặt bể biogas composite, máy phát điện chạy bằng khí gas sinh học; hỗ trợ mua máy ấp trứng; duy trì sản xuất đàn bò lai, nuôi giữ đàn giống lợn nái ngoại sinh sản, lợn thịt, đàn gia cầm, xây dựng mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật với kinh phí gần 7.604 triệu đồng.

Hàng năm, các sở, ngành, địa phương đều có kế hoạch phối hợp hỗ trợ xúc tiến thương mại, cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường nhằm tạo điều kiện cho các trang trại tham gia hội chợ trong, ngoài tỉnh và nước ngoài để giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng tiêu thụ. Từ năm 2002 đến nay, tỉnh đã tổ chức cho nhiều lượt trang trại tham gia hội chợ, triển lãm trong, ngoài tỉnh và cả nước, tạo môi trường thuận lợi gặp gỡ, giao lưu, trao đổi, quảng bá sản phẩm hàng hóa của trang trại đến người tiêu dùng, giúp các trang trại mở rộng thị trường.

Việc phát triển kinh tế trang trại trong sản xuất nông nghiệp đã đem lại hiệu quả cao, hàng hóa nông sản ngày càng nhiều, góp phần cải thiện đời sống của nông dân và phát triển kinh tế của tỉnh. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của trang trại là trong nước, chỉ có một số sản phẩm của trang trại, thông qua trung gian, xuất khẩu sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Toàn tỉnh có 21/323 trang trại giao dịch thương mại điện tử, 12/323 trang trại thực hiện liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, có Hợp đồng với doanh nghiệp để thực hiện sản xuất theo quy trình, tiêu thụ sản phẩm theo Hợp đồng. Có khoảng từ 60 - 70% sản lượng nông, thủy sản tiêu thụ trong tỉnh thông qua liên kết với các siêu thị, nhà hàng, khách sạn, còn lại được tiêu thụ nhỏ, lẻ và làm nguyên liệu chế biến.

Bình quân các trang trại của Quảng Bình sử dụng đất là 5,6 ha/trang trại. Các trang trại góp phần khai thác thêm diện tích đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hóa, mặt nước ven sông, ven biển, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đẩy nhanh tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc và bảo vệ môi trường sinh thái. Để khai thác có hiệu quả diện tích đất sử dụng, các trang trại trên địa bàn tỉnh cơ bản thực tốt quy trình kỹ thuật về bảo vệ đất, làm giàu đất, chấp hành tốt việc quản lý, sử dụng đất đai theo luật đất đai hiện hành; chấp hành nộp thuế, nghĩa vụ tài chính đầy đủ theo quy định pháp luật; hoạt động sản xuất kinh doanh không gây ảnh hưởng đến quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương; thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về lao động...

Tuy nhiên, kinh tế trang trại Quảng Bình phát triển vẫn thiếu ổn định, bền vững; chưa có bước chuyển biến tích cực cả về chất và lượng. Năng suất, chất lượng sản phẩm chưa cao, chủ yếu là sản phẩm thô, chưa qua chế biến, tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Giá trị sản xuất bình quân/trang trại còn thấp, hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại chưa cao so với toàn quốc. Sản xuất kinh doanh chưa đa dạng, chủ yếu phát triển theo chiều rộng, kỹ thuật sản xuất theo truyền thống, đơn điệu. Số trang trại quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, mang tính đột phá còn ít, toàn tỉnh có 32/323 trang trại (chiếm 9,9%) ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao trong sản xuất. Ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đang vẫn còn xảy ra. Liên kết giữa trang trại và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, thiếu kết nối với thị trường...

Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường tiêu thụ khó khăn và không ổn định, các trang trại phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa với khối lượng sản phẩm tương đối lớn song thị trường chưa ổn định, liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản còn thấp; điều kiện khí hậu thời tiết ngày càng cực đoan, đại dịch Covid-19, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm diễn biến phức tạp, giá cả vật tư đầu vào tăng cao, trong khi giá cả thị trường đầu ra sản phẩm không ổn định. Nhu cầu vốn đầu tư mở rộng sản xuất là rất lớn, nhưng chủ yếu vay thương mại, thế chấp tài sản nên lượng vốn vay không đủ đáp ứng cho nhu cầu sản xuất, chủ trang trại ít được tiếp cận được các nguồn vốn vay tín dụng. Lao động trong trang trại chủ yếu là lao động phổ thông, kỹ năng nghề chưa tinh thông, còn hạn chế trong tiếp cận với những công nghệ mới. Gần 80% chủ trang trại chưa qua đào tạo, thiếu kiến thức khoa học - kỹ thuật, phát triển trang trại theo phong trào, chưa nắm bắt được thị trường nên việc đầu tư để phát triển thiếu bền vững...

PV Hồng Mến

Các tin khác

Thông báo mới

VB mới

Chủ tịch HCM và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Thông tin tuyên truyền (PBPL ... DVC)

Footer Quảng Bình

Lượt truy cập