Chi tiết tin - Quảng Bình
Luật thuế thu nhập cá nhân: Giảm mức thu - Tăng diện người được nộp thuế.
Nội dung cơ bản của Luật thuế TNCN
Lộ trình để ban hành Luật thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) số 04 được Quốc hội khoá 12 thông qua ngày 21/11/2007 là cả một chặng đường dài. Kể từ khi Pháp lệnh thu Thu nhập đối với người có thu nhập cao(TNC) lần đầu tiên được ban hành vào ngày 19/5/1994 cho đến nay đã ba lần sửa đổi, bổ sung. Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 54, ngày 06/02/1997; Pháp lệnh số 35, ngày 19/5/2001 thay thế các Pháp lệnh trước và tiếp tục sửa đổi, bổ sung tại Pháp lệnh số 14 ngày 24/3/2004 có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/12/2008.
Như vậy, song song với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước; tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của từng thời kỳ Đảng và Nhà nước ta đã có chính sách điều tiết thu nhập của người có thu nhập cao một cách hợp lý, vừa động viên nghĩa vụ đóng thuế của người lao động, vừa khai thác tốt nguồn thu này để phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội. Quá trình ban hành Luật đã kế thừa có chọn lọc các Pháp lệnh thuế TNC trước đây, đồng thời có nhiều quy định mới phù hợp với tốc độ phát triển kinh tế, phù hợp với thu nhập và điều kiện sống của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với các điều ước quốc tế; và được xây dựng trên cơ sở ngày càng đơn giản, dễ thực hiện, dễ kiểm tra.
Nội dung cơ bản của Luật thuế TNCN gồm:
Một là: Về đối tượng nộp thuế:
So với Pháp lệnh trước đây, Luật không phân biệt đối tượng nộp thuế là người nước ngoài hay người Việt
Chuyển cá nhân và nhóm cá nhân kinh doanh; Hộ kinh doanh cá thể; cá nhân hành nghề độc lập từ đối tượng nộp thuế Thu nhập doanh nghiệp(TNDN) sang đối tượng nộp thuế TNCN. Như vậy diện người nộp thuế được mở rộng hơn trước đây.
Hai là: Về Thu nhập chịu thuế và thu nhập không chịu thuế:
Chuyển thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất, chuyển quyền thuê đất; thu nhập từ chuyển nhượng vốn đầu tư vào cơ sở kinh doanh từ đối tượng chịu thuế TNDN sang đối tượng chịu thuế TNCN.
Bổ sung một số thu nhập từ một số loại hình kinh doanh, dịch vụ(trong khuôn khổ pháp luật) mới xuất hiện trên thị trường như: Trúng thưởng trong cá cược, casino; chuyển nhượng chứng khoán; nhượng quyền thương mại;...
Bên cạnh việc chuyển một số đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế từ thuế TNDN sang thuế TNCN...Cần lưu ý một số điểm liên quan đến lợi ích trực tiếp của người nộp thuế, đó là: Tại điều 4 của Luật được quy định 14 điểm “Thu nhập được miễn thuế” như: Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn với đất ở của cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất; từ giá trị quyền sử dụng đất được Nhà nước cấp đất; thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường; thu nhập từ kiều hối; thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng; lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ....; và một số khoản phụ cấp, trợ cấp theo chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước. Qua đó cho thấy, mặc dù diện đối tượng điều tiết của Luật được mở rộng, có tính phổ cập trong toàn xã hội, tạo thêm nhiều cơ hội cho mọi người được nộp thuế, nhưng vẫn đảm bảo các chính sách bảo trợ cho người có công với đất nước, với người nghèo, người có thu nhập thấp.
Ba là: Về Thu nhập tính thuế (Đối với cá nhân cư trú):
Tuy đã xác định được Thu nhập chịu thuế (Luật quy định thành 9 nhóm thu nhập từ điều 10 đến điều 18) nhưng khoản thu nhập nào phải tính thuế, khoản thu nhập nào được giảm trừ trước khi tính thuế? Có thể phân thành 2 loại thu nhập sau:
Nhóm 1:Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh; từ tiền lương, tiền công(điều 10, điều 11). Loại Thu nhập này trước khi tính thuế được giảm trừ gia cảnh, giảm trừ các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo...không vì mục đích lợi nhuận(điều 20)và được áp dụng thuế suất tại Biểu thuế luỹ tiến từng phần. Riêng Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh được xác định: Doanh thu trừ các Chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập trong kỳ tính thuế.
Ngưỡng tính thuế của nhóm này là khi đạt đến thu nhập 5 triệu đồng/ tháng. Việc giảm trừ gia cảnh(điều 19)được quy định: Đối với đối tượng nộp thuế được giảm trừ 4 triệu đồng/ tháng; đối với mỗi người phụ thuộc được giảm trừ 1,6 triệu đồng/ tháng. Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm: Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động; các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, gồm: Con thành niên đang học các trường chuyên nghiệp, học nghề; Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động; không có khả năng lao động; người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng. Nguyên tắc giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc chỉ được tính một lần vào một đối tượng nộp thuế. Ví dụ: Một người mẹ hết tuổi lao động, không có thu nhập, có 2 con đều có thu nhập vượt ngưỡng chịu thuế, thì người mẹ này chỉ được đăng ký kê khai giảm trừ người phụ thuộc ở một người con( không được kê khai giảm trừ ở cả 2 người con). Trong Luật không hạn chế số người phụ thuộc được tính giảm trừ gia cảnh vào một đối tượng nộp thuế, nhưng Chính phủ sẽ có quy định chi tiết và hướng dẫn về vấn đề này. Quy định về giảm trừ gia cảnh, giảm trừ tiền từ thiện, nhân đạo là một trong những quy định mới, đồng thời cũng là mốc so sánh về giảm mức điều tiết thu nhập cho những người có hoàn cảnh đặc biệt phải gánh vác trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, tạo sự công bằng so với những người có cùng mức thu nhập nhưng không phải nuôi dưỡng ai; thể hiện một chính sách thuế gắn với văn hoá truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc.
Nhóm 2 là Những thu nhập được quy định từ điều 12 đến điều 18: Trước đây thường gọi là thu nhập không thường xuyên gồm: Thu nhập từ đầu tư vốn(Thuế suất 5%);Thu nhập từ chuyển nhượng vốn: Nếu xác định được giá mua và chí phí (theo khoản 1, điều 13) sau khi trừ vào giá bán áp dụng thuế suất 20%, nếu không xác định được thì tính trên giá bán với thuế suất 0,1%; Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản: Nếu xác định được giá mua và chí phí (theo khoản 1, điều 14) áp dụng thuế suất 25%, nếu không xác định được thì tính trên giá bán thuế suất 2%; Thu nhập từ trúng thưởng vượt trên 10 triệu đồng(10%); từ bản quyền; nhượng quyền thương mại(5%); từ kế thừa, quà tặng(10%). Thuế suất này được quy định tại Biểu thuế toàn phần.
Bốn là: Đối với cá nhân không cư trú: Đây là một thuật ngữ trong lĩnh vực thuế được các nước quy ước để phân quyền trong các Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần. Do đặc điểm cá nhân có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày, nên rất khó xác định được chi phí liên quan tạo ra thu nhập. Vì vậy, để tạo thuân lợi cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế, Luật quy định cách xác định thuế TNCN đối với cá nhân không cư trú là tính theo tỷ lệ trên doanh thu; hoặc trên một lần cá nhân có phát sinh thu nhập, cụ thể:Về thu nhập từ kinh doanh được phân theo 3 nhóm ngành nghề với thuế suất riêng: Về Kinh doanh hàng hoá thuế suất: 1%; Sản xuất, xây dựng, vận tải, kinh doanh khác: 2%; Dịch vụ: 5% (không trừ chi phí). Thu nhập từ tiền lương, tiền công nhận được do thực hiện công việc tại Việt Nam được tính thuế suất 20%(không giảm trừ gia cảnh); Thu nhập từ đầu tư vốn vào Việt Nam được tính trên thuế suất: 5%; Thu nhập từ chuyển nhượng vốn đã có tại Việt Nam được tính trên thuế suất: 0,1%; Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản được tính thuế suất: 2% trên giá chuyển nhượng; Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại phần vượt trên 10 triệu đồng được tính trên thuế suất: 2%; Thu nhập từ trúng thưởng, thừa kế, quà tặng phần vượt trên 10 triệu đồng được tính trên thuế suất: 10% cho một lần phát sinh thu nhập.
Năm là: Khi nắm được 4 điểm trên ta có thể hiểu được cơ bản về đối tượng, cách tính và có thể tính được thuế TNCN cho những cá nhân có thu nhập trên ngưỡng chịu thuế; tuy nhiên ngoài việc xác định được thuế TNCN phải nộp, cần hiểu thêm về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế về đăng ký, kê khai, khấu trừ, nộp thuế, kỳ tính thuế và quyết toán thuế, hoàn thuế, cung cấp thông tin về thu nhập và người phụ thuộc; các điều ước quốc tế...(điều 8, điều 9 và 24); nhằm thực hiện tốt Luật thuế khi có hiệu lực.
Tuy ngày 01/01/2009 Luật mới có hiệu lực thi hành, nhưng để vận dụng tốt chính sách thuế TNCN vào cuộc sống một cách có hiệu quả nhất, mọi tổ chức, cá nhân đều phải có trách nhiệm nghiên cứu, tìm hiểu Luật một cách thấu đáo nhằm tránh những lỗi vi phạm không đáng có, vừa nâng cao trách nhiệm của mọi cá nhân đối với cộng đồng, vừa đảm bảo sự công bằng trong toàn xã hội./.







